Vị trí và chức năng của Wernicke

Khu vực Wernicke là khu vực của bộ não quan trọng cho phát triển ngôn ngữ. Nó nằm ở thùy thái dương ở phía bên trái của não và chịu trách nhiệm cho việc hiểu lời nói, trong khi khu vực của Broca liên quan đến việc sản xuất lời nói. Việc phát triển hoặc sử dụng ngôn ngữ có thể bị suy giảm nghiêm trọng do tổn thương vùng não của Wernicke.

Khi khu vực này của não bị tổn thương, một chứng rối loạn gọi là chứng mất ngôn ngữ của Wernicke có thể xảy ra, với người có thể nói được những cụm từ có vẻ thông thạo nhưng thiếu ý nghĩa.

Vị trí

Khu vực Wernicke thường nằm ở phần sau của thùy thái dương, mặc dù vị trí chính xác có thể thay đổi. Nó thường được tìm thấy ở bán cầu não trái, nhưng không phải lúc nào cũng vậy.

Cách phát hiện khu vực của Wernicke

Các nhà thần kinh học đầu tiên quan tâm đến việc khám phá ra nơi mà một số khả năng được bản địa hóa trong não. Bản địa hóa chức năng não này cho thấy rằng một số khả năng nhất định, chẳng hạn như ngôn ngữ sản xuất và hiểu biết, được kiểm soát bởi một số phần nhất định của não.

Một trong những người tiên phong của nghiên cứu này là một nhà thần kinh học người Pháp tên là Paul Broca. Trong những năm đầu thập niên 1870, Paul Broca phát hiện ra một vùng não liên quan đến việc sản xuất ngôn ngữ nói. Ông thấy rằng thiệt hại cho khu vực này dẫn đến vấn đề sản xuất ngôn ngữ.

Broca mô tả một bệnh nhân được gọi là Leborgne có thể hiểu được ngôn ngữ mặc dù ông không thể nói chuyện ngoài những lời bị cô lập và một vài lời nói khác. Khi Leborgne qua đời, Broca đã thực hiện một cuộc kiểm tra hậu kỳ trên não người đàn ông và phát hiện một thương tổn ở một vùng thùy trán. Khu vực này của bộ não bây giờ được gọi là khu vực của Broca và có liên quan đến việc sản xuất lời nói.

Khoảng 10 năm sau, một nhà thần kinh học tên là Carl Wernicke đã xác định một loại vấn đề tương tự, trong đó bệnh nhân có thể nói nhưng không thể thực sự hiểu ngôn ngữ. Kiểm tra bộ não của bệnh nhân bị vấn đề ngôn ngữ này tiết lộ tổn thương tại một ngã ba của các thùy đỉnh, thái dương, và chẩm. Vùng não này bây giờ được gọi là khu vực của Wernicke và được kết hợp với sự hiểu biết về ngôn ngữ nói và viết.

Mất ngôn ngữ Wernicke

Khi khu vực của Wernicke bị tổn thương do chấn thương hoặc bệnh tật, một ngôn ngữ mất ngôn ngữ có thể xảy ra. Mất ngôn ngữ là một sự suy yếu của ngôn ngữ ảnh hưởng đến khả năng hiểu và sản xuất cả giao tiếp nói và viết của một cá nhân. Chứng mất trí thường là kết quả của đột quỵ, nhưng chúng cũng có thể do nhiễm trùng, khối u và chấn thương đầu. Loại mất ngôn ngữ này được gọi là chứng mất ngôn ngữ của Wernicke nhưng đôi khi còn được gọi là mất ngôn ngữ thông thạo, mất ngôn ngữ cảm giác, hoặc mất ngôn ngữ tiếp nhận.

Chứng mất ngôn ngữ của Wernicke là một rối loạn ngôn ngữ tác động đến việc hiểu ngôn ngữ và tạo ra ngôn ngữ có ý nghĩa do tổn thương vùng não của Wernicke. Các cá nhân bị mất ngôn ngữ Wernicke gặp khó khăn trong việc hiểu ngôn ngữ nói nhưng có thể tạo ra âm thanh, cụm từ và chuỗi từ.

Trong khi những lời phát biểu này có cùng nhịp điệu như lời nói bình thường, chúng không phải là ngôn ngữ bởi vì không có thông tin nào được truyền tải. Loại mất ngôn ngữ này ảnh hưởng đến cả ngôn ngữ nói và viết.

Theo Hiệp hội mất ngôn ngữ quốc gia, những người bị mất ngôn ngữ Wernicke có thể thường xuyên tạo ra những bài phát biểu có âm thanh bình thường và đúng ngữ pháp. Nội dung thực tế của bài phát biểu này có ý nghĩa rất ít. Các từ không tồn tại và không có liên quan thường được bao gồm trong các câu mà những cá thể này tạo ra.

Để hiểu rõ hơn về thiệt hại của khu vực Wernicke ảnh hưởng đến ngôn ngữ như thế nào, có thể hữu ích khi xem video clip của một cá nhân bị mất ngôn ngữ Wernicke.

Nguồn:

> Chứng mất ngôn ngữ của Wernicke (Receptive). Hiệp hội mất ngôn ngữ quốc gia. https://www.aphasia.org/aphasia-resources/wernickes-aphasia/.

> Wright, A. Chương 8: Hàm Cortical cao hơn: Ngôn ngữ. Khoa học thần kinh trực tuyến. Trung tâm Khoa học Sức khỏe Đại học Texas. https://nba.uth.tmc.edu/neuroscience/s4/chapter08.html.